Scholar Hub/Chủ đề/#suy thận mạn tính/
Suy thận mãn tính (còn được gọi là suy thận mãn, suy thận man) là một bệnh lý thận đặc trưng bởi sự suy giảm mức độ hoạt động của thận dẫn đến suy thận vĩnh viễ...
Suy thận mãn tính (còn được gọi là suy thận mãn, suy thận man) là một bệnh lý thận đặc trưng bởi sự suy giảm mức độ hoạt động của thận dẫn đến suy thận vĩnh viễn. Điều này có nghĩa là thận không còn thực hiện được chức năng lọc và loại bỏ chất thải từ cơ thể đủ mức độ hiệu quả. Suy thận mãn tính thường phát triển chậm, kéo dài trong thời gian dài và không thể chữa khỏi hoàn toàn. Nguyên nhân gây ra suy thận mãn tính có thể bao gồm các vấn đề về tuổi tác, tiền sử bệnh lý thận (như viêm thận mạn tính, bệnh thận mạn tính, hoặc xoắn vùng thận), bệnh tiểu đường, huyết áp cao, viêm tụy mãn tính và sử dụng lâu dài các loại thuốc có thể gây tổn thương thận. Triệu chứng của suy thận mãn tính bao gồm mệt mỏi, sự suy giảm cân nặng, buồn nôn, nôn mửa, ngứa, đau xương và vết nứt da dễ rạn. Điều trị suy thận mãn tính thường bao gồm các biện pháp hỗ trợ thay thế thận như thẩm phân hoặc ghép thận.
Suy thận mãn tính là một tình trạng mà các thận không thực hiện chức năng lọc máu và điều chỉnh cân bằng nước và chất điện giải trong cơ thể một cách hiệu quả. Thay vào đó, các thận bị suy giảm hoặc mất khả năng hoạt động bình thường, dẫn đến sự tích tụ các chất thải và chất độc trong máu.
Nguyên nhân chính của suy thận mãn tính có thể bao gồm:
1. Bệnh thận mạn tính: Đây là tình trạng khi cấu trúc và chức năng của thận bị hư hỏng vì các vấn đề khác nhau như viêm thận mạn tính, bệnh thận mạn tính, xoắn vùng thận, hoặc tổn thương do sử dụng chất làm độc thận (như cồn, ma túy, hóa chất độc hại).
2. Bệnh tiểu đường: Suy thận mãn tính có thể là một biến chứng của bệnh tiểu đường. Việc kiểm soát không tốt bệnh tiểu đường trong một thời gian dài có thể gây hại cho các mạch máu nhỏ và các thành tế bào thận, dẫn đến suy thận mãn tính.
3. Huyết áp cao: Áp lực máu cao liên tục có thể gây tổn thương đến các mạch máu thận và làm giảm chức năng của chúng theo thời gian.
4. Viêm cấp vùng thận: Một cuộc tấn công vi khuẩn hoặc virus vào vùng thận có thể gây tổn thương và viêm nhiễm. Nếu không được điều trị kịp thời, nó có thể dẫn đến suy thận mãn tính.
Triệu chứng của suy thận mãn tính bao gồm mệt mỏi, suy giảm cân nặng không giải thích, mất khẩu vị, buồn nôn, nôn mửa, ngứa da vô lí, đau xương, cơ và khớp, vết nứt da dễ rạn và đau ngực. Một số người còn có triệu chứng khó thở và hơi thở hôi.
Điều trị suy thận mãn tính thường liên quan đến việc kiểm soát các yếu tố gây tổn thương thận cơ bản, điều chỉnh chế độ ăn uống, điều trị căn bệnh gốc và điều trị triệu chứng. Điều trị thay thế thận như thẩm phân (một phương pháp lọc máu ngoài cơ thể) hoặc ghép thận (thay thế hoàn toàn thận tự nhiên bằng thận từ nguồn từ thiện) có thể là cần thiết trong một số trường hợp nặng. Vai trò của chế độ ăn uống là quan trọng, bao gồm hạn chế natri, chất xơ và protein để giảm gánh nặng cho thận.
Ngoài ra, quan trọng để điều chỉnh các yếu tố rủi ro như huyết áp cao, tiểu đường, chứng tăng lipid máu và kiểm tra định kỳ để theo dõi chức năng thận và sự hiện diện của bất kỳ biến chứng nào.
Suy thoái võng mạc và dây thần kinh thị giác sau khi thắt động mạch carotid mãn tính Dịch bởi AI Stroke - Tập 33 Số 4 - Trang 1107-1112 - 2002
Giới thiệu và Mục đích
—
Bệnh động mạch carotid có thể gây ra tình trạng thiếu máu mãn tính ở võng mạc, dẫn đến mù lòa tạm thời hoặc vĩnh viễn, rối loạn phản xạ đồng tử, và thoái hóa võng mạc. Thí nghiệm này đã điều tra tác động của tình trạng thiếu máu mãn tính ở võng mạc trong một mô hình động vật liên quan đến tắc nghẽn động mạch carotid vĩnh viễn. Tiến trình bệnh lý ở võng mạc và vai trò của ánh sáng trong bệnh lý này đã được xem xét.
Phương pháp
—
Chuột Sprague-Dawley đã trải qua thắt nghẹn vĩnh viễn hai bên động mạch carotid chung hoặc phẫu thuật giả. Một nửa số động vật được nuôi trong điều kiện tối tăm sau phẫu thuật, và nửa còn lại được nuôi trong chu kỳ ánh sáng/tối 12 giờ. Các động vật đã được giết ở 3, 15, và 90 ngày sau phẫu thuật. Các kỹ thuật hình thái học đã được sử dụng để đếm số lượng tế bào của lớp tế bào hạch võng mạc. Độ nhạy immunoreactivity Thy-1 đã được đánh giá để định lượng cụ thể sự mất mát của tế bào hạch võng mạc. Độ dày của các lớp võng mạc còn lại đã được đo. Suy thoái dây thần kinh thị giác được định lượng bằng kỹ thuật nhuộm bạc Gallyas.
Kết quả
—
Thắt nghẹn vĩnh viễn hai bên động mạch carotid chung dẫn đến mất phản xạ đồng tử với ánh sáng ở 58% số chuột. Những mắt mất phản xạ cho thấy (1) sự suy thoái dây thần kinh thị giác ở 3, 15, và 90 ngày sau phẫu thuật; (2) sự giảm số lượng tế bào neuron trong lớp tế bào hạch võng mạc và độ nhạy immunoreactivity Thy-1 sau 15 và 90 ngày; và (3) sự mất mát nghiêm trọng của các tế bào photoreceptor sau 90 ngày khi được nuôi trong điều kiện có ánh sáng sau phẫu thuật.
Kết luận
—
Tổn thương do thiếu máu dây thần kinh thị giác đã dẫn đến việc mất phản xạ đồng tử và cái chết của tế bào hạch võng mạc ở một nhóm chuột nhất định. Sau đó, độc tính của ánh sáng đã gây ra cái chết của các tế bào photoreceptor.
Nghiên cứu cắt ngang tiềm năng về nhiễm virus BK ở những người nhận ghép tạng rắn không phải thận mắc suy thận mãn tính Dịch bởi AI Transplant Infectious Disease - Tập 8 Số 2 - Trang 102-107 - 2006
Tóm tắt: Bối cảnh: Nhiễm polyomavirus (chủ yếu là virus BK [BKV]) là nguyên nhân quan trọng gây ra rối loạn chức năng thận mãn tính ở người nhận ghép thận, nhưng ảnh hưởng của nó đến rối loạn chức năng thận mãn tính ở người nhận ghép tạng rắn không phải thận (NRSOT) vẫn chưa được khám phá đầy đủ.
Phương pháp: Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu cắt ngang tiềm năng đối với những người nhận ghép NRSOT liên tiếp có rối loạn chức năng thận mãn tính không rõ nguyên nhân kéo dài ít nhất 3 tháng. Hồ sơ y tế đã được xem xét và phương pháp phản ứng chuỗi polymerase đã được sử dụng để khuếch đại các trình tự đặc hiệu của BKV từ mẫu huyết thanh và nước tiểu. Các mối liên hệ tiềm năng giữa các biến số nhân khẩu học và ghép tạng khác nhau với nhiễm BKV đã được đánh giá.
Kết quả: Ba mươi bốn người nhận ghép NRSOT liên tiếp (23 phổi, 8 gan, 2 tim, 1 tim-phổi) có rối loạn chức năng thận mãn tính đã được tuyển chọn với thời gian trung bình là 3,5 năm (dao động từ 0,3-12,5 năm) sau khi ghép. Năm trong số 34 bệnh nhân (15%) có BKV viruria (dao động từ 1040-1.8 × 106 copies/mL), nhưng không có ai có BKV viremia. BK viruria có liên quan đến việc sử dụng mycophenolate mofetil (5 trong số 19 [26%] so với 0 trong số 15, P=0.03) và có tiền sử bệnh cytomegalovirus (3 trong số 4 [75%] so với 2 trong số 30 [7%], P<0.01). Tuy nhiên, độ thanh thải creatinine ước lượng trung bình tương tự ở những bệnh nhân có hoặc không có BKV viruria (49 so với 47 mL/phút).
Kết luận: BKV viruria có mặt trong một tỷ lệ bệnh nhân NRSOT có rối loạn chức năng thận mãn tính không rõ nguyên nhân khác. Khả năng nhiễm BKV có thể góp phần vào rối loạn chức năng thận mãn tính trong bối cảnh này cần được nghiên cứu thêm.
Mức leptin huyết thanh thấp có liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng theo thang điểm suy dinh dưỡng - viêm ở bệnh nhân đang điều trị thẩm tách máu mạn tính Dịch bởi AI Hemodialysis International - Tập 24 Số 2 - Trang 221-227 - 2020
Tóm tắtGiới thiệu: Leptin là một adipokine được tiết ra từ tế bào mỡ, có vai trò điều hòa chuyển hóa lipid và viêm. Nghiên cứu cắt ngang này nhằm điều tra mối quan hệ giữa mức leptin huyết thanh và tình trạng dinh dưỡng, được đánh giá qua thang điểm suy dinh dưỡng - viêm (MIS), ở những bệnh nhân đang điều trị thẩm tách máu (HD).
Phương pháp: Nghiên cứu này bao gồm 100 bệnh nhân đang điều trị HD. Tình trạng dinh dưỡng được dựa trên thang điểm MIS (suy dinh dưỡng ≥7 điểm). Thành phần cơ thể, dữ liệu sinh hóa và mức leptin huyết thanh được đánh giá.
Kết quả: Trong số 100 đối tượng, 33 (33,0%) được phân loại là suy dinh dưỡng. So với những bệnh nhân trong nhóm dinh dưỡng tốt, những người trong nhóm suy dinh dưỡng có độ tuổi trung bình cao hơn, thời gian điều trị HD lâu hơn, và có chiều cao, cân nặng, chỉ số khối cơ thể, vòng eo, khối lượng mỡ cơ thể, mức triglycerid huyết thanh và mức creatinin thấp hơn. Mức leptin huyết thanh cũng thấp hơn một cách đáng kể ở nhóm suy dinh dưỡng (P < 0.001), trong khi mức protein phản ứng C (CRP) thì cao hơn (P = 0.002). Phân tích hồi quy tuyến tính đa biến cho thấy thời gian điều trị HD (β = 2.06, P = 0.009), mức leptin huyết thanh (β = −5.16, P < 0.001), mức CRP (β = 3.33, P < 0.001), và mức albumin (β = −1.95, P = 0.008) là những yếu tố có liên quan độc lập với MIS. Khả năng phân biệt của mức leptin huyết thanh để dự đoán suy dinh dưỡng là 0.834 (khoảng tin cậy 95%: 0.747‐0.901, P < 0.001).
Thảo luận: Mức leptin huyết thanh thấp có liên quan đến suy dinh dưỡng, và mức leptin huyết thanh có thể là một dấu hiệu quý giá cho việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân đang điều trị HD.
TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN TÍNH CÓ LỌC MÁU CHU KỲ TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊNĐặt vấn đề: Bệnh nhân suy thận mạn và đặc biệt là nhóm bệnh nhân có lọc máu chu kỳ, liên quan chặt chẽ tới tình trạng suy dinh dưỡng của bệnh nhân do cơ thể giảm protein và giảm năng lượng dự trữ. Mục tiêu: Đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng của bệnh nhân suy thận mạn tính có lọc máu chu kì tại bệnh viện Trung Ương Thái nguyên năm 2020.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp mô tả, thiết kế cắt ngang trên toàn bộ bệnh nhân suy thận mạn tính có lọc máu chu kỳ tại khoa Nội Thận tiết niệu và lọc máu bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ bệnh nhân bị thiếu năng lượng trường diễn (BMI < 18,5) chiếm tỷ lệ khá cao (27,8%). Thời gian điều trị của người bệnh càng dài thì tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn càng cao (đánh giá bằng chỉ số BMI) với p < 0,05. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo phương pháp SGA có tới 58,3% bệnh nhân bị SDD nhẹ, 2,2% bệnh nhân bị SDD nặng.
#Suy dinh dưỡng #suy thận mạn tính #lọc máu chu kỳ #bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI CAO TUỔI MẮC BỆNH THẬN MẠN GIAI ĐOẠN 3-5 CHƯA ĐIỀU TRỊ THAY THẾ TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ NĂM 2021-2022Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và điều tra yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng ở người bệnh cao tuổi mắc bệnh thận mạn giai đoạn 3-5 chưa điều trị thay thế. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Người bệnh ≥ 60 tuổi mắc bệnh thận mạn điều trị nội trú tại khoa Thận tiết niệu – Lọc máu, bệnh viện Hữu Nghị. Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng theo MNA là 14,1%, tỷ lệ suy dinh dưỡng theo BMI là 13,2%, tỷ lệ suy dinh dưỡng theo albumin huyết thanh là 23,6%. Điểm MNA trung bình giảm dần theo giai đoạn bệnh 3, 4, 5, lần lượt là 24,1±3,1; 22,1±4,4; 21,0±3,6 điểm (p < 0,05). Tình trạng dinh dưỡng có liên quan đến giai đoạn bệnh (OR = 3,1, 95%CI: 1,1-9,8, p < 0,05), albumin huyết thanh < 35 g/L (OR 5,8, 95%CI: 1,8-21,5, p < 0,05) và tình trạng thiếu máu (OR = 3,0, 95%CI: 1,1-8,3, p < 0,05). Kết luận: Người cao tuổi mắc bệnh thận mạn có tỷ lệ suy dinh dưỡng khá cao, có mối liên quan giữa tình trạng suy dinh dưỡng với giai đoạn bệnh, albumin và tình trạng thiếu máu.
#suy dinh dưỡng #bệnh thận mạn #người cao tuổi #MNA
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT LÀM CẦU NỐI ĐỘNG TĨNH MẠCH CHO BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN LỌC MÁU CHU KỲ TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊNMục tiêu: Đánh giá kết quả tạo thông động tĩnh mạch cho bệnh nhân suy thận mạn chạy thận chu kỳ. Đối tượng và Phương pháp: 42 bệnh nhân suy thận mạn được làm cầu nối động tĩnh mạch để chạy thận nhân tạo. chọn mẫu thuận tiện. Tiến hành tại Bệnh viện đa khoa trung ương Thái Nguyên thời gian từ 1/2022 đến tháng 12 năm 2022. Kết quả: 25 bệnh nhân nam, 17 bệnh nhân nữ. Độ tuổi trung bình 57,3 ±12,2 tuổi, cầu nối động tĩnh mạch thông tốt 95,2%, lưu lượng trung bình 864,42 ± 77,80mml/phút. 1 Bệnh nhân tắc cầu nối sau hơn 1 tháng phẫu thuật. Kết luận: Kết quả sau phẫu thuật tốt là 95,2%. Biến chứng tắc miệng nối 1 tuần sau phẫu thuật chiếm 2,4%.
#cầu nối động tĩnh mạch #suy thận mạn
KHẨU PHẦN ĂN CỦA BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN TÍNH LỌC MÁU CÓ CHU KỲ TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN NĂM 2021Mục tiêu: Đánh giá khẩu phần ăn của bệnh nhân suy thận mạn tính có lọc máu chu kì tại bệnh viện Trung Ương Thái nguyên năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp mô tả với thiết kế cắt ngang trên 228 bệnh nhân suy thận mạn tính có lọc máu chu kì tại khoa Nội Thận tiết niệu và lọc máu, bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu: Khẩu phần ăn của người bệnh cung cấp thiếu về tổng năng lượng (chỉ đạt 72,2%) và một số chất dinh dưỡng sinh năng lượng (P: đạt 92,8%, L: đạt 91,0%, G: chỉ đạt 68,6%) và không sinh năng lượng (vitamin B2: đạt 98,0%, đặc biệt vitamin A (chỉ đạt 18,1%) và sắt (chỉ đạt 33,8%) thiếu nhiều so với nhu cầu khuyến nghị. Một số chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của người bệnh vượt quá nhu cầu khuyến nghị như: vitamin B1 (281,1%), lipid động vật (164,5%), canxi (124,0%), vitamin C (116,5%), vitamin B3 (112,8%), phospho (103,2%). Chỉ có muối natri nằm trong giới hạn cho phép (< 3000 mg/ngày) và protein động vật được cung cấp đầy đủ so với nhu cầu khuyến nghị.
#Suy thận mạn tính #lọc máu chu kì #khẩu phần ăn #khoa Nội Thận tiết niệu và lọc máu
MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC VÀ SINH HÓA MÁU CỦA NGƯỜI BỆNH SUY THẬN MẠN LỌC MÁU CHU KỲ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH ĐIỆN BIÊN NĂM 2018Lọc máu chu kỳ là biện pháp thay thế thận được áp dụng rộng rãi, tuy nhiên người bệnh cóthể gặp phải một số vấn đề như: Mất các chất dinh dưỡng trong quá trình lọc máu, giảm cácchất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn. Việc khảo sát một số chỉ số huyết học và sinh hóa máu làrất quan trọng để đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng, thiếu máu, giảm dự trữ sắt giúp cho việcđiều trị cũng như điều chỉnh chế độ dinh dưỡng cho người bệnh. Mục tiêu: Mô tả một số chỉsố huyết học và sinh hóa máu của người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện đakhoa tỉnh Điện Biện năm 2018. Đối tượng nghiên cứu: 87 người bệnh suy thận mạn được lọcmáu chu kỳ từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2018 tại khoa Thận nhân tạo Bệnh viện đa khoa tỉnhĐiện Biên. Phương pháp: nghiên cứu dịch tễ học mô tả qua điều tra cắt ngang có phân tích.Kết quả: trong số 87 người bệnh suy thận mạn được lọc máu chu kỳ thì tỷ lệ người bệnh thiếualbumin là 14,9%, tỷ lệ người bệnh bị thiếu máu là 78,2%, chủ yếu là thiếu máu nhẹ, tỷ lệ ngườibệnh thiếu sắt tế bào và dự trữ sắt thấp tương ứng là 100% và 63,2%. Kết luận: Việc phát hiệnngười bệnh thiếu máu, giảm dự trữ sắt và giảm albumin có vai trò quan trọng giúp chẩn đoánsuy dinh dưỡng và thiếu máu ở người bệnh lọc máu chu kỳ, từ đó giúp cho việc điều trị cũngnhư thay đổi chế độ ăn cho người bệnh.
#Lọc máu chu kỳ #dinh dưỡng #thiếu albumin #thiếu máu #tỉnh Điện Biên
NGHIÊN CỨU TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI LỌC MÁU CHU KỲ TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ ANMục tiêu: Khảo sát tình trạng dinh dưỡng và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 104 bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ tại khoa Nội thận – Thận nhân tạo bệnh viện hữu nghị đa khoa Nghệ An. Kết quả: (1)Tỷ lệ bệnh nhân thiếu cân theo BMI là 26,1%; tỷ lệ bệnh nhân có albumin huyết thanh thấp là 26,9%; đánh giá nguy cơ tổng thể theo chỉ số SGA thì tỷ lệ nguy cơ thiểu dưỡng mức độ B là 40,4%. (2) 14,4% bệnh nhân thiếu máu nặng; 31,7% bệnh nhân thiếu máu vừa và 47,2% bệnh nhân thiếu máu nhẹ. (3) Có mối liên quan giữa tình trạng suy dinh dưỡng với thời gian lọc máu (p<0,05). Kết luận: Tỷ lệ thiếu dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ còn cao, đặc biệt ở nhóm bệnh nhân có thời gian lọc máu lọc máu trên 5 năm.
#Suy dinh dưỡng #Bệnh thận mạn giai đoạn cuối
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ BẰNG THANG ĐIỂM PSQI Ở BỆNH NHÂN SUY TIM MẠN TÍNHĐặt vấn đề: rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân suy tim mạn tính là rất phổ biến, nó có thể ảnh hưởng không nhỏ tới sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân mà còn tác động lớn tới quá trình chăm sóc, điều trị bệnh, gây suy giảm sức khỏe nặng nề hơn. Mục đích nghiên cứu: nghiên cứu này thực hiện là để đánh giá chất lượng giấc ngủ, ảnh hưởng của chất lượng giấc ngủ tới bệnh nhân và các yếu tố dự báo của nó ở bệnh nhân suy tim. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, được thực hiện trên cỡ mẫu 251 bệnh nhân bị suy tim mãn tính đến khám và điều trị nội trú tại Viện tim mạch Bạch Mai từ tháng 8/2021 đến tháng 9 năm 2022. Những bệnh nhân này đã hoàn thành một cuộc điều tra nhân khẩu học bằng câu hỏi trong bệnh án nghiên cứu và chất lượng giấc ngủ của họ được đo bằng chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh (PSQI). Sử dụng phân tích phương sai một chiều ANOVA, kiểm định Chi-square, kiểm định Kruskal – Wallis và kiểm định hổi qui tuyến tính, kiểm định hồi qui logistic được sử dụng để phân tích bộ dữ liệu. Kết quả: 78,5% bệnh nhân (n = 197) cho biết chất lượng giấc ngủ kém (PSQI > 5). Dải điểm PSQI thu được trong nghiên cứu chạy từ 3-19 điểm, cho thấy tất cả bệnh nhân đều gặp ít nhất một vấn đề liên quan đến giấc ngủ. Ngoài ra, một mối quan hệ đáng kể đã được tìm thấy giữa điểm PSQI và tuổi của bệnh nhân (p <0,001), trình độ học vấn (p <0,001), tình trạng nghề nghiệp (p <0,038), số lần nhập viện (p <0,005), bệnh ngoài tim (p <0,001), sử dụng thuốc lợi tiểu và trái phân suất tống máu thất (p<0,001). Kết luận: Tỉ lệ bệnh nhân có chất lượng giấc ngủ kém rất cao cho thấy tính trầm trọng của rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân suy tim tại Việt Nam. Có nhiều yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ và rối loạn giấc ngủ mà các bác sĩ, điều dưỡng và cơ quan y tế cần có sự công nhận để cải tiến và quản lí hiệu quả.
#PSQI #chất lượng giấc ngủ #suy tim